Bác sĩ Yersin – nhà truyền giáo thầm lặng tại Việt Nam xưa

“Alexandre Yersin là một con người trầm lặng và cũng là một nhà truyền giáo trầm lặng. Yersin đã từ bỏ những danh vọng để đi theo tiếng gọi của Chúa. Yersin theo Chúa và hầu việc Ngài cách âm thầm; thậm chí hằng trăm năm sau vẫn ít người biết đến.
Giống như Chúa Giê-xu, Yersin đã sống để bày tỏ tình yêu. Những người Việt sống gần Yersin biết ông và quý mến ông. Họ thấy Yersin có một điều gì là lạ, khác với nhiều người Pháp vào lúc đó, nhưng không biết đó là điều gì. Những người đã tiếp xúc với Yersin đều biết ông là một người đạo đức và đầy lòng nhân ái.

Trong Thánh Kinh, Chúa Giê-xu dạy rằng người chăn bầy chân thật phải hy sinh cho bầy chiên của mình. Yersin đã chọn những người nghèo tại Việt Nam là bầy chiên của ông và Yersin đã hy sinh phần lớn cuộc đời của ông cho họ. Noel Bernard, cựu Giám đốc Viện Pasteur tại Sài Gòn đã viết rằng Yersin đã hy sinh cuộc sống cá nhân cho lý tưởng. Ông xem thường danh vọng và những cơ hội thăng tiến.
Yersin không phải là một nhà truyền giáo bình thường. Trong suốt hơn 50 năm Yersin sống tại Việt Nam, chúng ta không rõ có bao nhiêu người tin nhận Chúa qua chức vụ của ông. Mục sư Jacques Pannier cho biết một số phụ tá của Yersin là tín hữu Tin Lành. Điều mà chúng ta biết là nhiều người Việt quý mến Alexandre Yersin. Ngày nay, một số địa phương tại Việt Nam có những đường phố và trường học mang tên Alexandre Yersin. Đây là một vinh dự hiếm hoi ít người Tây Phương nào có được tại Việt Nam.
Với những cơ hội đã có, Yersin có thể chọn con đường dễ dàng hơn để thành đạt. Nếu Yersin ở lại Pháp, làm việc với Viện Pasteur Paris, Yersin không thiếu cơ hội để nghiên cứu và có thể nhận giải thưởng Nobel về Y Khoa như một số đồng nghiệp của ông là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901), Alphonse Laveran (Nobel 1907), và Charles Nicolle (Nobel Prize 1928).
So với các giải Nobel Y Khoa khác, công trình nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của bệnh dịch hạch và sự thành công trong việc phát minh ra thuốc ngừa dịch hạch là những công trình nghiên cứu rất quan trọng. Trước khi Yersin khám phá ra nguyên nhân của dịch hạch, mỗi năm hàng chục ngàn người trên thế giới đã chết vì bệnh này. Trong thế kỷ 14-15, hàng triệu người tại Âu Châu đã chết vì dịch hạch. Nhiều thành phố làng mạc đã bị xóa tên hẳn trên bản đồ. Theo một ước tính của một số nhà nghiên cứu, dịch hạch đã làm dân số thế giới giảm từ 450 triệu xuống 350-375 triệu người trong thế kỷ thứ 15.
Để được xét duyệt giải Nobel, các ứng viên cần có người giới thiệu và vận động. Các quốc gia liên hệ với Yersin là Thụy Sĩ, Pháp, Việt Nam có thể làm điều đó; tuy nhiên có lẽ điều này trái với nguyện ước của Yersin nên không ai thực hiện. Công tác nhân đạo của Yersin cũng xứng đáng để nhận Nobel Hòa Bình như Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo Tin Lành trong lĩnh vực y khoa, đã nhận vào năm 1952. Tuy nhiên, Yersin đã không tìm kiếm những vinh quang đó.

Yersin đã cống hiến rất nhiều cho Việt Nam. Ngoài việc chế tạo huyết thanh trừ dịch hạch, việc sáng lập ngành thú y Việt Nam, việc nghiên cứu về nông lâm súc, việc trồng cây ký ninh đã dẫn đến thành công trong việc chế tạo thuốc trừ sốt rét là một bệnh nguy hiểm tại Việt Nam và Á Châu vào lúc đó. Đây cũng là một đóng góp rất quan trọng cho ngành dược tại Việt Nam.
Nhờ uy tín của Yersin, Viện Pasteur Đông Dương được thành lập. Viện nghiên cứu này là một trong những viện nghiên cứu y khoa hàng đầu thế giới về dịch tể học vào đầu thế kỷ 20.
Giáo sư Đoàn Xuân Mượu cho biết trong suốt hơn 100 năm qua, Đại Học Y Khoa Hà Nội mà Yersin sáng lập đã đào tạo biết bao nhân tài cho Việt Nam. Các bác sĩ từ trường này đã cứu chữa biết bao người Việt trong những năm sau đó.
Yersin nổi tiếng là nhà nghiên cứu về vi sinh vật học và là một nhà nghiên cứu địa dư; tuy nhiên Yersin cũng là nhà nghiên cứu khí tượng và thiên văn. Yersin có lần nói rằng: “Tôi là người nghiên cứu thế giới vi mô nhưng làm sao tôi bỏ qua thế giới vĩ mô được.” Qua những công trình nghiên cứu địa lý, thiên văn, và qua ảnh hưởng của Yersin, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã cho thành lập Sở Địa Dư (Service Géographique), Sở Địa Chất (Service Géologique), Sở Khí Tượng (Service Météorologique), Đài Thiên Văn (Observatoire), và Hải Học Viện (Institut Océanographique). Đây là những cơ sở nghiên cứu khoa học đầu tiên của các ngành này tại Việt Nam.
Từ đầu thế kỷ 20, thành phố Nha Trang được nhiều người trên thế giới biết đến nhờ Yersin định cư tại đây. Thành phố Đà Lạt và cao nguyên miền Trung được khai phá qua công trình nghiên cứu của Yersin.
Yersin cho trồng cao su tại Việt Nam vào năm 1899. Mùa thu hoạch đầu tiên đã được hãng Michellin mua; vỏ xe của Michellin ngày nay nổi tiếng khắp thế giới.
Nhờ Yersin, Việt Nam ngày nay trở thành một trong những nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới. Những công ty trà và cà-phê Việt Nam thành công trong việc kinh doanh hiện nay một phần nhờ công khó của Yersin. Hàng trăm ngàn người Việt ngày nay có việc làm và cuộc sống ổn định nhờ trồng hoặc chế biến trà, cà phê, đào, mận, dâu, cà rốt, bắp cải, rau quả mà Yersin đã nghiên cứu trồng gần 100 năm trước. Nhiều loại rau trái cây mà người Việt dùng hàng ngày do Yersin nhập vào lúc đó.
Alexandre Yersin đã sống tại Việt Nam hơn 50 năm. Thật khó có thể phân tích đầy đủ giá trị những cống hiến của Yersin cho Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có lòng tri ân. Có lẽ đã đến lúc người Việt nên làm một điều gì đó, với danh nghĩa một quốc gia, để tri ân một người đã đóng góp rất nhiều cho Việt Nam.”
*Nguồn ( Thư Viện Tin Lành)